NHỮNG CÂY PHÒNG BỆNH HƠN CẢ THUỐC TÂY
Dẫn nhập:
Đi: Có bệnh thì vái tứ phương. Hai tháng trời
đi nhiều vùng quê, thăm bạn bè, chữa bệnh. Ở đâu cũng thấy cây cỏ xum xuê, ẩn
hiện cây thuốc trong vườn nhà bạn.
Quan sát: Các loại cây này: đinh lăng, chè đắng,
con khỉ, dấp cá không hề có con sâu nào bén mảng. Bên cạnh nhà tôi, anh bạn có
trạm nuôi gà chọi, buổi sáng thường thả cho chúng sổ lồng. Lạ thay, chúng thi
nhau mổ các lá con khỉ, chề đắng, dấp cá – nghĩa là chúng đã sơi ngon lành những
thứ này.
Dùng thử: Thế là tôi suy ra những cây này có
thể tác dụng gì đó và quyết định dùng thử. Mỗi tuần một thứ, loại ăn gém trực
tiếp như rau sống: dấp cá, đinh lăng, con khỉ; loại hãm như trà uống hàng ngày: lá cây bơ, lá mãng cầu xiêm, lá cây an xoa… Riêng trà đắng, quê tôi gọi là cây lá gan, theo kinh nghiệm bản thân, chỉ nên uống 5 lần cho 1 tháng,
(vì là cây thuốc dạng kháng sinh, uống nhiều có thể có những hệ lụy không tốt
cho sức khỏe).
Cuối cùng, Tìm được lời giải của chuyên môn:
a-CHỮA TIỂU ĐƯỜNG BẰNG LÁ BƠ HIỆU QUẢ
Bệnh tiểu đường hay đái tháo đường là một căn bệnh mãn tính có
diễn biến phức tạp nếu như người bệnh không kiểm soát tốt được đường huyết của
mình. Hệ lụy của những vấn đề này là những tổn thương nghiêm trọng do biến
chứng tiểu đường gây ra như mù mắt, tàn phế chân, suy thận...Chính
vì vậy việc điều trị chữa bệnh tiểu đường cần có một phương pháp tốt. Trong Đông y việc trị bệnh
tiểu đường tỏ ra
khá hiệu quả hơn so với thuốc tây như dùng mướp đắng, quế, ... để điều trị tiểu đường tuýp 2. Ngoài ra còn một phát hiện ra một
loại cây vừa có thể dùng quả, lá để điều trị tiểu đường cũng rất tốt đó chính
là cây bơ. Trong bài viết này chúng tôi muốn nhắc tới công dụng chữa tiểu đường
bằng lá bơ để mọi người có thể tham khảo.
Giá trị quả bơ đối với sức khỏe
Trước khi đi đến bài thuốc chữa tiểu đường bằng lá bơ chúng ta
cùng tìm hiểu về giá trị của trái đối với sức khỏe:
Lợi ích về mặt dinh dưỡng
Các loại axít béo không bão hòa dạng đơn thể trong quả bơ giúp
kiểm soát quá trình trao đổi chất trong cơ thể. Ngoài những loại axít béo có
ích, trái bơ còn chứa hàm lượng kali cao. Bên cạnh đó, nó chứa các loại vi
dưỡng chất quan trọng khác như sắt, đồng, magiê và phốt pho. Trái bơ còn có
nhiều loại vitamine như vitamine A, nhóm vitamine B, axít folic, vitamine C,
vitamine E và can-xi. Trái bơ còn là nguồn giàu chất xơ, ít chất đường và tinh
bột, là loại thực phẩm lý tưởng cho các bệnh nhân mắc bệnh đái tháo đường.
Lợi ích về sức khỏe
- Giúp điều chỉnh huyết áp: Với hàm lượng cao axít folic và kali
có trong trái bơ sẽ giúp điều chỉnh huyết áp và chống đột quỵ, cũng như ngăn
ngừa những vấn đề về tim và các bệnh liên quan đến hệ tuần hoàn.
- Giảm cholesterol gây hại: Thành phần axít oleic và linoleic
chứa trong trái bơ có tác dụng làm giảm mức cholesterol xấu (LDL) và gia tăng
lượng cholesterol có ích cho cơ thể.
- Trị loét bao tử: Bơ giúp làm dịu phần bề ngoài nhạy cảm,
niêm mạc của bao tử và tá tràng, do vậy
sẽ có tác dụng điều trị hiệu quả các vết loét.
- Tăng cường hệ miễn dịch: Việc dùng bơ thường xuyên có tác dụng
duy trì tình trạng khỏe khoắn và tăng cường hệ miễn dịch.
- Cải thiện khả năng thị giác: Các chất antioxidants chứa trong
trái bơ giúp trung hòa các gốc tự do, cải thiện thị giác và phòng tránh các bệnh
về mắt, như bệnh loạn thị, bệnh tăng nhãn áp và bệnh đục thủy tinh thể.
- Giúp hơi thở thơm tho: Các thành phần trong trái bơ có tác
dụng tẩy trừ các chất cặn bã đã bị phân hủy trong đường ruột.
- Ngăn ngừa sạn thận: Chất kali chứa nhiều trong trái bơ giúp
làm giảm lượng can-xi bài tiết qua đường nước tiểu, nhờ thế sẽ làm giảm nguy cơ
mắc bệnh sạn thận.
- Giúp thai nhi phát triển: Thành phần axít folic trong trái bơ đóng vai trò có
ích và quan trọng cho quá trình phát triển các mô mạnh khỏe của bào thai.
- Ngăn ngừa tình trạng nôn ói ở thai phụ: Vitamine B6 có trong
trái bơ có thể giúp làm dịu cảm giác buồn nôn và khó chịu ở bao tử của chị em
trong suốt thời gian thai nghén.
- Phòng tránh ung thư tuyến
tiền liệt: Chất phytonutrient có
trong trái bơ có tác dụng ngăn
ngừa quá trình phát
triển của các tế bào ung thư ở tuyến tiền liệt.
- Tăng cường độ khỏe khoắn của hệ thần kinh và cơ bắp: Lượng
kali chứa trong trái bơ giúp cân bằng các chất điện phân, giúp các cơ bắp hoạt
động hiệu quả, đồng thời còn giúp tăng cường năng lượng cho hệ thần kinh và quá
trình trao đổi chất trong cơ thể.
- Ngăn ngừa bệnh vẩy nến: Theo các chuyên gia, chất dầu có trong trái bơ rất có ích trong việc điều
trị các chứng bệnh về da như bệnh vẩy nến và chứng khô da.
Thành phần của quả bơ chữa bệnh tiểu đường
Bơ là trái cây chứa nhiều chất dinh dưỡng nhất. Trong 100g thịt trái bơ chín có 60g nước, 2,08g protid, 20,10g lipid, 7,4g gluxit, tro 1,26g, các chất khoáng: Ca 12mg, P 26, Fe 0,6mg, vitamin A 205mg, B10,05mg, C 20mg, các aminaxit: cystin, tryptophan, ngoài ra còn có nhiều chất kháng khuẩn. Ngoài ra trong lá và vỏ cây chứa nhiều chất dầu dễ bay hơi (methyl - chavicol, alpha pinen) flavonoid, lanin...
Bài thuốc chữa tiểu đường bằng lá bơ
Đây là bài thuốc mà
nhiều người mắc bệnh tiểu đường
lâu năm dùng lá bơ sắc lấy nước uống thấy có tác dụng hạ đường huyết rõ rệt: "Dùng lá
bơ tươi trên cây vừa mới hái bỏ vào nồi
cho 10 bát nước sắc lấy 5 bát để nguội rồi cho vào tủ lạnh dùng dần. Mỗi
ngày uống 3 lần vào sáng, trưa và tối "
b-TRÀ ĐẮNG
Cây chè (trà) đắng còn gọi là khổ đinh trà, có tác dụng tăng
cường sức khỏe, kéo dài tuổi thọ nên còn được gọi là thọ trà, mỹ dung trà. Theo
y học cổ truyền, chè đắng có công dụng trị cảm cúm, kiết lỵ, diệt khuẩn đường
ruột, trợ giúp tiêu hóa, thanh nhiệt (mát cơ thể), giải khát rất tốt, hạ mỡ
trong máu, cao huyết áp. Riêng tác dụng trị tiểu đường chỉ mới có vài kinh
nghiệm lẻ tẻ, cần theo dõi xác định thêm.
Nhìn chung, chè đắng là một
loại dược thảo bổ, nâng sức khỏe và sức đề kháng cho cơ thể. Do đó khi mắc các
bệnh nhẹ, cấp tính đơn giản (cảm cúm, rối loạn tiêu hóa nhẹ) có thể dùng. Còn
nếu mắc các bệnh phức tạp, nặng, nhiều biến chứng lâu dài (tiểu đường, cao
huyết áp, mỡ trong máu cao...) thì nên khám kỹ lưỡng, làm đủ các xét nghiệm để
đánh giá chính xác bệnh nặng nhẹ, giai đoạn mấy và điều trị kết hợp nhiều liệu
pháp (chế độ ăn, tập luyện thể dục, thuốc tây hay thuốc nam) chứ không chỉ uống
thuốc nam, và phải theo dõi sát 1-2 tuần, nếu không bớt phải đổi thuốc ngay.
Th.S-BS Quan Vân Hùng - trưởng
khoa nội 2, Viện Y dược học dân tộc TP.HCM
(Nguồn: vietbao.vn)
c-CÂY ĐINH LĂNG
Tác dụng chữa
bệnh không ngờ của cây đinh lăng
Cây đinh lăng là loại cây cảnh khá quen thuộc
với nhiều gia đình. Cây đinh lăng không chỉ sử dụng làm rau sống mà còn
là một vị thuốc có tác dụng bồi bổ sức khỏe, chữa được nhiều chứng bệnh mà bạn
không thể ngờ tới.
Theo y học cổ
truyền, rễ đinh lăng có vị ngọt, hơi đắng, tính mát có tác dụng thông huyết mạch,
bồi bổ khí huyết, lá có vị đắng, tính mát có tác dụng giải độc thức ăn, chống dị
ứng, chữa ho ra máu, kiết lỵ… Theo Lương y Đinh Công Bảy, tất cả các bộ phận của
cây đinh lăng đều có thể chế biến thành thuốc. Từ thân cành lá cho đến toàn bộ
rễ và vỏ cây (đã trồng được 3 năm). Công dụng của cây đinh lăng: – Rễ làm
thuốc bổ, lợi tiểu, cơ thể suy nhược gầy yếu. – Lá chữa cảm sốt, giã nát đắp chữa
mụn nhọt, sưng tấy. – Thân và cành chữa tê thấp, đau lưng.
Liều dùng bài thuốc từ cây đinh lăng: Dùng rễ phơi khô, mỗi lần từ 1- 4 g, dùng thân, rễ, lá, cành mỗi lần từ 30-50 g, dạng thuốc sắc hoặc ngâm rượu. Bài thuốc chữa bệnh từ cây đinh lăng Chữa mệt mỏi: Lấy rễ cây đinh lăng sắc uống có tác dụng làm tăng sức dẻo dai của cơ thể. Chữa ho lâu ngày: Rễ đinh lăng, bách bộ, đậu săn, rễ cây dâu, nghệ vàng, rau tần dày lá tất cả đều 8g, củ xương bồ 6g; Gừng khô 4g, đổ 600ml sắc còn 250ml. Chia làm 2 lần uống trong ngày. Uống lúc thuốc còn nóng. Chữa sưng đau cơ khớp, vết thương: Lấy 40gam lá tươi giã nhuyễn, đắp vết thương hay chỗ sưng đau. Phòng co giật ở trẻ: Lấy lá đinh lăng non, lá già cùng phơi khô rồi lót vào gối hay trải xuống giường cho trẻ nằm. Chữa đau lưng mỏi gối (chữa cả tê thấp): Dùng thân cành đinh lăng 20 – 30g, sắc lấy nước chia 3 lần uống trong ngày. Có thể phối hợp cả rễ cây xấu hổ, cúc tần và cam thảo dây. Thông tia sữa, căng vú sữa: Rễ, lá đinh lăng có tác dụng bồi bổ cơ thể, chữa tắc tia sửa hiệu quả. Rễ cây đinh lăng 30-40g. Thêm 500ml nước sắc còn 250ml. Uống nóng. Chữa liệt dương: Rễ đinh lăng, hoài sơn, ý dĩ, hoàng tinh, hà thủ ô, kỷ tử, long nhãn, cám nếp, mỗi vị 12g; trâu cổ, cao ban long, mỗi vị 8g; sa nhân 6g. Sắc uống ngày 1 thang. Chữa viêm gan: Rễ đinh lăng 12g; nhân trần 20g; ý dĩ 16g; chi tử, hoài sơn, biển đậu, rễ cỏ tranh, xa tiền tử, ngũ gia bì, mỗi vị 12g; uất kim, nghệ, ngưu tất, mỗi vị 8g. Sắc uống ngày 1 thang. Chữa thiếu máu: Rễ đinh lăng, hà thủ ô, thục địa, hoàng tinh, mỗi vị 100g, tam thất 20g, tán bột, sắc uống ngày 100g bột hỗn hợp.
Chú ý: Không được dùng rễ đinh lăng với liều
cao, sẽ bị say, có hiện tượng mệt mỏi đối với cơ thể.
d-VỊ THUỐC
TỪ CÂY CON KHỈ
Từ một
hiệu quả điều trị cho một bệnh nhân bị ung thư gan, sau khi các loại thuốc đã
bó tay, khi được ăn những lá tươi xanh người bệnh đã có những chuyển biến bất
ngờ. Nhiệt độ từ 39,5 độ C hạ xuống còn 37 độ, cơn đau chưa hẳn, nước da bớt
vàng, bụng nhỏ lại, người nhẹ nhàng, bệnh nhân có thể ngồi dậy tiếp chuyện.
Sau khoảng từ 20 phút đến một giờ thuốc có tác dụng. Nếu ăn 5 lá
giảm đau được 3 giờ, 7 lá giảm đau được 5 giờ, tương đương với một liều thuốc
đặc trị.
Thực tế ấy làm cho gia đình người bệnh ngạc nhiên, phấn khởi
nhưng với lòng luyến tiếc bởi nếu dùng thuốc sớm hơn thì kết quả có thể hy vọng
cứu được người bệnh.
Dùng lá trong lúc bệnh tình đã đến giai đoạn cuối nhưng gây được
chuyển biến như vậy thì thật tuyệt vời. Ðó là cây “Hoàn Ngọc”, Cây thuốc cực kỳ
quý giá. Một món quà thiên nhiên tặng cho con người. Xuất xứ cây này được gọi
là cây “con khỉ” vốn là vì khỉ ăn chữa khỏi bệnh thủng ruột, nhưng sau đổi
thành “Hoàn Ngọc” vì đã trả lại cho chú bé hòn dái bị biến mất do trò chơi nghịch
đá vào bìu nhau.
Cây thuốc rất đa năng. Từ hồi phục trạng thái của cơ thể khỏe
mạnh đến các bệnh thông thường cũng như hiểm nghèo. Cây thuốc như cứu tinh
trong nhiều trường hợp thúc bách, không rõ nguyên căn, nhưng sau khi ăn, diễn
biến của bệnh tương tự như một hành động điều trị, điều chỉnh trạng thái cơ
thể, chỗ nào yếu điều trị chỗ đó.
Có thể nêu cụ thể tác dụng cây thuốc như sau:
1. Khôi phục sức khỏe cho người ốm yếu, mệt mỏi, người già, suy
nhược thần kinh, làm việc quá sức, khủng hoảng về tinh thần và thể lực.
2. Cảm cúm nhiệt độ cao, rối loạn tiêu hóa.
3. Chấn thương chảy máu, dập gãy cơ thể, dùng như nước uống và
thuốc đắp. Ðặc biệt hiệu nghiệm với vết thương sọ não.
4. Khi bị nhiều bịnh một lúc như: Bệnh đường ruột, cảm cúm, gan,
thận . . .
5. Ðau dạ dầy, chảy máu đường ruột, lở loét hành lá tràng, viêm
loét đại tràng, trĩ nội.
6. Ðau gan sơ gan cổ trướng.
7. Viêm thận, viêm đường tiết niệu, đái ra máu, đái buốt, đái
dục, đái gắt, bìu đau nhức. Sau khi uống hoặc ăn 150 lá đến 200 lá khỏi hẳn,
tràn dịch màng phổi đều tốt.
8. Ðau bên trong không rõ nguyên nhân.
9. Ðau mắt đỏ, mắt trắng, đau ứ máu.
10. Phụ nữ đang cho con bú bị sa dạ con cũng ăn lá thuốc không
ảnh hưởng gì đến sữa.
11. Ðối với người có bệnh huyết áp cao hoặc thấp ăn lá thuốc đều
có hiệu quả, ổn định được thần kinh, rối loạn thần kinh thực vật đều chữa khỏi.
12. Có thể dùng cho chó Nhật như đẻ một ngày cho ăn lá sạch ngaỵ
Gà chọi sau khi chọi cho ăn lá nó khôi phục sức gấp 3 lần.
Theo tôi dùng chữ “thần dược” với cây thuốc nầy cũng không quá ,
là một nhà nghiên cứu tôi muốn đặt câu hỏi tại sao? để chúng ta bàn luận. Tại
sao khi ăn thuốc có khả năng hiệu chỉnh làm cơ thể ổn định ? có lẽ nhờ phân
tích hóa chất gì đó đã tạo nên những hiệu quả như vậy.
Chúng ta tốn rất nhiều thời gian và phải có thí nghiệm tốt. Theo
kinh nghiệm trong dân gian, ta hãy rút ra từ thực tế. Ví dụ: Suy nhược thần
kinh nặng, huyết áp cao, huyết áp thấp, đái ra máu, đái gắt đều chữa được rất
nhanh chóng có những bệnh xem như đối lập nhau cho một loại thuốc nhưng ngược
lại thuốc vẫn chữa được phải chăn theo quy luật bảo toàn, cơ thể con người có
khả năng bảo tồn lấy sức khỏe nên đã tự động tăng sức đề kháng hoặc tự điều
chỉnh, tự cân bằng tương đối để thắng bệnh tật. Do đó hầu hết các bệnh đều tự
khắc phục được.
Ở đây, khi ta dùng “Hoàn ngọc”, lá thuốc này có tác dụng chữa
bệnh như châm cứu, tức là tự động điều chỉnh lại cơ thể nhưng hoàn toàn tự động
hoá để khắc phục bệnh tật do tự tác dụng, tự cân bằng âm dương. Vì vậy cây cỏ
có tên là “Nhật Nguyệt”. Chính vì thế mới có khả năng chữa nhiều bệnh cùng một
lúc như vậy. Chính từ những suy nghĩ đó, chúng tôi đã vận dụng để chữa được rất
nhiều bệnh và phục hồi sức khỏe. Tuy nhiên với từng người còn phải có liều
lượng cho phù hợp do tính chất cân bằng âm dương và hàn nhiệt của từng người.
Về hình thức cây thuốc:
Ðây là loại cây lá dài nhọn, mặt sau hơi nhạt, hình lá tương tự
màu cây, cây cứng không có hoa, cây có lá mọc đối xứng, kẻ lá chồi cành cây
chúc ngược lên, lá nó không bền mà chỉ vàng một chút là rụng ngay. Cây có sức
sống khỏe như cành mọc thẳng, nhân giống chủ yếu bằng ngọn cây cắm xuống đất.
Cách dùng và liều lượng:
– Người ta dùng lá tươi là chủ yếu, lá tươi ăn ngay hoặc lấy
nước uống, nấu chín lá ăn như canh.
– Do tác dụng chủ yếu là chất nước trong lá, nên vỏ cây hoặc vỏ
rễ có thể ngâm bằng rượu hoặc nấu lấy nước. Lá tươi không có mùi vị dể ăn, liều
lượng nhiều hay ít tùy thuộc vào từng người. Thông thường nên ăn từ 1- 7 lá và
ăn nhiều lần. Mỗi lần không quá 10 lá. Uống quá liều có thể phản ứng nhẹ như
người bị choáng váng nhưng chỉ sau 10 – 15 phút là khỏi.
– Các số liệu sau đây là phổ biến: (trừ ngoại lệ)
– Ðau dạ dầy do bị loét, viêm: ăn 2 lần/ngày. Mỗi lần không quá
7 lá. Khoảng 50 lá là khỏi.
– Chảy máu đường ruột: Uống lá tươi hoặc lá đã nát, dùng 7–10 lá.
Khoảng 1-2 lần là khỏi.
– Viêm đại tràng co thắt: Ăn như trên 100 lá, kết hợp ăn lá mơ
lông trong bữa ăn. Ăn từ 1 đến 2 tháng.
– Viêm gan, sơ gan cổ trướng: Ngày ăn 2-3 lần, mỗi lần 7 lá dùng
khoảng 150 lá.
– Ðau thận, viêm thận, đau thường xuyên: Dùng không quá 50 lá,
chỉ khoảng 30 lá là dứt cơn đau, ngày 3 lần, mỗi lần 3-7 lá.
– Tả lỏng, đi lỵ, rối loạn tiêu hóa: 7-15 lá, dùng 2 lần là
khỏi.
– Mệt mỏi toàn thân: 3-7 lá, ăn 2 lần.
– Ðái gắt, đái buốt, đái dục, đái ra máu: Ăn từ 14-21 lá hoặc dã
nát uống nước đặc.
Chữa bệnh gà dùng 1-3 lá, gà chọi sau khi chọi 1-3 lá. Chó cảnh
đẻ ăn 1 lá sau 1 ngày đẻ là mạnh ngay. Ðau mắt đỏ, mắt trắng, ứ máu trong mắt
lấy 3 lá đắp vào mắt sau một đêm là khỏi.
Làm thuốc là để tự cứu lấy mình và cứu người khi có điều kiện.
Ðây là những kinh nghiệm của bản thân tôi, tôi không dám phổ biến sợ người hiểu
biết hơn cho là hồ đồ. Song nếu các bạn thu kết quả gì đó thì lấy đó làm kinh
nghiệm. Mặt khác khi thu được kinh nghiệm thì nên trao đổi.
Thói quen nhấm nháp một số loại cây, lá tự nhiên để phòng và tự
chữa bệnh của loài khỉ đã dạy cho con người biết thêm nhiều bài thuốc quý chữa
các bệnh về nhiễm trùng, tiêu hoá, thậm chí ngừa thai. Một ngành khoa học mới
mang tên Zoo-pharmacognosie ra đời, chuyên nghiên cứu khả năng tự chăm sóc của
động vật bằng cây thuốc tự nhiên.
Trong một khu rừng ở Tanzania, nhà nhân chủng học Richard
Wrangham, Đại học Harvard, Mỹ, nhận thấy các con khỉ thường nhấm nháp lá cây
Aspilia (thuộc họ hướng dương). Ông nếm thử thì thấy có vị đắng. Đem về phòng thí
nghiệm phân tích thấy chứa nhiều chất Thiarubrine A- một chất có tác dụng chống
nhiễm vi khuẩn và ký sinh trùng. Cây Aspilia đã được ghi nhận trong nhiều dược
điển của các quốc gia. Lá và rễ của 7 chủng loại cây Aspilia được dùng sản xuất
nhiều loại dược phẩm chữa trị vết thương, ho, sốt, đau dạ dày.
Còn Machael Huffman, nhà khoa học thuộc Đại học Tổng hợp Tokyo,
cũng từng chứng kiến một con khỉ sắp chết đã lấy hết sức tàn để gặm liên tục
một thân cây Vermonia amydalina, ngày hôm sau con khỉ đó đã khỏe hơn nhiều. Vì
vậy, người Tanzania có truyền thống dùng cây này như một loại kháng sinh chữa
các bệnh đường tiêu hóa.
Thực tế cho thấy, khỉ thường ăn lá sung có chất chống nấm. Mùa
đông đến, khỉ châu Phi ăn các lá cây có tác dụng chống lạnh, viêm phổi. Giả thuyết
của nhà nghiên cứu Karen Strier về giống khỉ cái ở Brazin biết cách hạn chế
sinh đẻ, tránh thai bằng cách ăn một loại lá cây giàu chất isoflavonoides đến
nay tuy chưa được khẳng định, nhưng được nhiều nhà linh trưởng học đồng tình.
Một số loài khỉ ở Costa Rica còn biết cách chọn sinh con đực hay
cái theo ý muốn bằng cách hai vợ chồng khỉ tìm ăn những loại cây giàu chất
kiềm, chất toan, phù hợp với một số sách hướng dẫn muốn sinh con gái thì mẹ nên
ăn nhiều chất kiềm (âm tính), và muốn sinh con trai thì ăn nhiều chất toan
(dương tính).
Ở Việt Nam, những năm trước đây đã từng xuất hiện cơn sốt về
“cây con khỉ”, với những tên gọi khác như xuân hoa, hoàn ngọc… được quảng cáo
là khi bị bệnh loài khỉ thường tìm những cây này để ăn. Tính chất, công dụng
của loại cây này là chống viêm nói chung, chủ yếu là viêm nhiễm đường ruột. Tuy
nhiên, không nên dùng bừa bãi vì phân biệt loại cây này không đơn giản, người
không hiểu biết về thảo dược có thể bị các lang băm lừa bịp, tiền mất tật mang.
Cây hoàn ngọc còn có tên là cây con khỉ, họ Ô rô (Acantaceae).
Có 2 loại là hoàn ngọc đỏ (Pseuderanthemum bracteatum) và cây hoàn ngọc trắng
(Pseuderanthemum palatiferum).
Cây hoàn ngọc đỏ
Cây hoàn ngọc đỏ còn có tên cây xuân hoa lá hoa, là cây bụi, cao
từ 0,6 – 1,5m, sống nhiều năm. Khi còn non, thân trơn nhẵn, mầu hơi vàng hồng,
lá đơn, nguyên, mọc đối, cuống lá dài, phiến lá hình mũi mác. Những lá non, ở
ngọn có mầu nâu hoặc hơi vàng đỏ, phủ một lớp lông rất mịn. Lá già màu xanh,
mặt trên xanh đậm Cây hoàn ngọc trị bệnh đường ruột, mặt dưới xanh nhạt. Cụm
hoa
dạng bông, mọc ở kẽ lá hay đầu cành, tràng hình ống, mau tím
nhạt. Cây mọc phổ biến ở một số tỉnh đồng bằng sông Hồng: Thái Bình, Nam Định,
Hưng Yên, Hải Dương… Lá non nhấm có vị chát se, hơi chua, thường được dùng ăn
kèm với thịt, cá như một loại rau gia vị để giúp cho việc tiêu hóa tốt, tránh
đầy bụng, sôi bụng, đau bụng.
Khi cây bắt đầu ra hoa vào tháng 12 đến tháng 2 năm sau, người
ta cắt lấy phần trên mặt đất, gồm các cành non và lá, rửa sạch phơi khô. Khi
dùng cần cắt ra từng đoạn 5 – 7cm, sao vàng.
Hoàn ngọc đỏ có thể dùng để trị các bệnh viêm ruột cấp mạn tính,
thuộc thể hàn: đau bụng, quặn bụng, sôi bụng, đầy hơi, đi ngoài phân sống nát,
trĩ, đi ngoài ra máu. Ngoài ra còn có tác dụng cầm máu vết thương, lấy lá tươi,
rửa sạch, giã nát đắp và băng chặt vào chỗ vết thương chảy máu. Song song có
thể dùng lá tươi giã nát vắt lấy nước uống, hoặc sắc lá khô để uống khi bị chảy
máu. Có thể dùng riêng hoàn ngọc đỏ với liều 20 – 40g/ngày, sắc uống trị các
bệnh đường ruột nói trên. Hoặc phối hợp với một số vị thuốc khác, như hoàn ngọc
đỏ 16g, nam mộc hương 12g, hậu phác 12g, trần bì 10g, thương truật 10g, sắc
uống, ngày một thang. Uống liền 3 tuần lễ.
Cây hoàn ngọc trắng
Cây hoàn ngọc trắng còn gọi là cây xuân hoa, cũng thuộc loại cây
bụi, phân nhiều cành, có chiều cao khoảng 1- 2m, lá mọc đối, hình mũi mác, đầu
lá nhọn, thường xuyên xanh cả hai mặt. Cụm hoa mọc ở kẽ lá hoặc đầu cành có mầu
trắng pha tím. Khi nhấm, lá có dịch nhầy nhớt. Vị thuốc là lá của cây hoàn ngọc
trắng. Hoàn ngọc trắng cũng mọc hoang và được trồng ở nhiều nơi để làm thuốc.
Hoàn ngọc trắng cũng được dùng để trị các bệnh viêm nhiễm đường tiêu hóa, rối
loạn tiêu hóa… Trên thực tế, hoàn ngọc trắng dùng trị viêm đại tràng thể nhiệt,
tốt hơn như táo bón, đau bụng, trĩ xuất huyết. Có thể dùng lá tươi, rửa sạch,
ăn sống hoặc sắc lấy nước uống, ngày 8-10g.
Để trị viêm loét dạ dày, tá tràng, xuất huyết đường tiêu hóa,
trĩ nội, có thể dùng hoàn ngọc trắng, ngày 2 – 3 lần, mỗi lần 8 – 10g. Dùng
liền 2 tuần lễ.
Ngoài ra có thể dùng trị các vết thương khi té ngã bị chảy máu,
tụ máu, lở loét… Lấy lá tươi, rửa sạch, giã dập, đắp bó vào nơi bị đau.
e-TÁC DỤNG CỦA CÂY DIẾP CÁ
Rau
diếp cá có tên khoa học là Houttuynia Cordata Thumb, trong dân gian còn có tên
giấp cá, ngư tinh thảo, rau vẹn, tập thái, co vầy mèo (Thái). Là một loại thân
thảo, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt, có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rau diếp cá có
vị chua, mùi tanh, tính mát, ngoài việc dùng làm rau gia vị còn thường dùng làm
thuốc chữa nhiều bệnh.
. Một số bài thuốc từ rau diếp cá
- Chữa mụn nhọt ưng đỏ, mụn trứng cá: Lấy một nắm rau diếp cá rửa sạch, một
nửa đem giã nát, đắp lên vùng bị mụn, một nửa đem ăn sống (Nếu không ăn được
sống, có thể giã nát lấy nước uống với đường cũng được).
- Trị đái buốt đái dắt, tiểu đêm: Rau diếp cá, rau mã đề và rau má mỗi thứ
50g rửa sạch, vò nát lọc lấy nước trong uống 1 đến 2 tuần sẽ có tác dụng.
- Chữa viêm phổi, viêm ruột: Rau diếp cá 50g, sắc lấy nước uống, ngày
uống 2 – 3 lần trước bữa ăn, dùng 4 – 6 ngày sẽ khỏi.
- Trị quai bị: Lấy một ít lá diếp cá tươi, giã nhuyễn và đắp lên quai hàm, băng
lại cố định, mỗi ngày làm 2 lần.
- Chữa bệnh trĩ: Rau diếp cá dùng ăn sống hàng ngày - kết
hợp lấy diếp cá giã nát và rịt vào nơi bị trĩ, băng lại mỗi ngày 1 đến 2 lần
rất tốt.
- Chữa bệnh đau mắt đỏ: Rau diếp cá 10 lá, rửa sạch giã nhuyễn -
dùng vải mỏng hoặc giấy xốp gói đắp lên mắt sẽ khỏi.
- Chữa bệnh táo bón: Lấy 10g diếp cá sao khô, đổ nước nóng
vào ngâm 15 phút, sau đó uống thay trà. Trong thời gian trị liệu phải ngừng sử
dụng các loại thuốc khác, 10 ngày sau, sẽ có kết quả.
- Trị các chứng bệnh về thận: Lấy 50 - 100g rau diếp cá (sao vàng), đổ
1.000ml nước sôi vào ngâm trong 30 phút sau đó lấy ra uống, mỗi ngày 1 thang.
Uống lien tục trong vòng 3 tháng.
- Chữa sốt ở trẻ em: Rau diếp cá 30g để tươi, rửa sạch, giã
nát, thêm nửa bát nước nguội vào đun sôi, để nguội và uống làm một lần; đồng
thời, lấy bã đắp vào thái dương.
- Chữa kinh nguyệt không đều: Cây diếp cá 40g, ngải cứu 30g (cả hai
đều dùng tươi). Rửa sạch cây diếp cá và ngải cứu, giã nhỏ lọc bằng nước sôi để
nguội, lấy một bát nước thuốc, uống làm 2 lần trong ngày, uống liền 5 ngày,
uống trước kỳ kinh 10 ngày.
- Chữa viêm âm đạo: Cây diếp cá 20g, bồ kết 10g, tỏi 1 củ
(vừa). Cho tất cả vào nồi cùng với 5 bát nước đun sôi thật kỹ. Cho bệnh nhân
xông hơi nóng vào chỗ đau, sau đó dùng nước đã nguội để ngâm, rửa chỗ đau. Ngày
làm 1 lần, làm trong 7 ngày liền thì bệnh sẽ thuyên giảm hẳn.
- Chữa viêm tuyến vú: Lá diếp cá 30g (dùng lá tươi), lá cải
trời (một loại rau dại mọc rất nhiều vào mùa xuân) 20g. Rửa sạch hai thứ lá
trên, giã nhỏ, lọc bằng nước sôi để nguội lấy một bát nước thuốc, uống làm 2
lần trong ngày, cần uống 5 ngày liền.
- Chữa mụn nhọt sưng đỏ: Lá diếp cá ăn sống hoặc giã nát đắp vào
chỗ mụn nhọt.
- Chữa táo bón: Sao khô 10g diếp cá, hãm với nước sôi khoảng
10 phút, uống thay trà hàng ngày. Uống trong 10 ngày. Lưu ý: Trong thời gian
điều trị không được sử dụng các loại thuốc khác.
- Chữa bệnh viêm tai giữa: Lá diếp cá khô 20g, táo đỏ 10g, nước
60ml sắc còn 200ml chia uống 3 lần trong ngày.
- Chữa viêm phế quản: Lá diếp cá, cam thảo đất mỗi thứ 20g.
Sắc đặc, uống dần trong ngày.
- Hỗ trợ điều trị sỏi thận: 20g diếp cá, 15g rau dệu, 10g cam thảo
đất. Sắc uống ngày một thang, uống trong 1 tháng. Hoặc 100g diếp cá, sao vàng,
hãm với 1 lít nước sôi trong 20 phút, uống thay nước hàng ngày, uống trong 2
tháng. Sau 2 tháng nếu muốn uống tiếp thì 7 ngày sau mới uống.
- Trị chứng đái buốt, đái rắt: 20g diếp cá, rau má, rau mã đề mỗi vị
40g rửa sạch, giã nát, lọc lấy nước trong. Ngày uống 3 lần. Thực hiện trong 7-10
ngày.
Chữa đau sưng: Diếp cá 15g, nhọ nồi 15g, cải rừng 15g, xương sông 15g,
dưa chuột 15g, khế 15g, đơn đỏ 15g, huyết dụ 15g, xích hoa xà 3 lá, bí đao 3
lát, củ nâu 3 lát. Tất cả giã nát, thêm nước và vắt lấy nước uống, bã đắp vào
chỗ sưng (Nam dược thần hiệu)
Chữa sởi: Diếp cá 15g, rau dệu 15g, đậu chiều 12g, cam thảo đất 12g. Sắc
uống làm 2 lần trong ngày. Thuốc thúc sởi mau phát ra ngoai.
Chữa viêm phổi: Diếp cá 20g, thạch cao 40g, kim ngân
20g, lô căn 20g, liên kiều 20g, hạnh nhân 12g, hoàng liên 12g, hoàng cầm 12g,
ma hoàng 8g, cam thảo 5g. Thạch cao sắc trước 15 phút; hoàng liên giã dập, cho
các vị thuốc vào sắc uống làm 2 lần trong ngày. Nếu khó thở, thêm đinh lịch tử
12g, tang bạch bì 12g; nếu ho ra máu thêm bạch mao căn 12g.
Chữa viêm xoang nhiễm khuẩn: Diếp cá 20g, thạch cao 40g, kim ngân hoa
16g, tân di 12g, hoàng cầm 12g, chi tử 12g, tri mẫu 12g, mạch môn 12g. Thạch
cao sắc trước 15 phút, sau đó cho các vị thuốc vào, sắc uống. Ngày uống 1
thang.
Kiêng kỵ: Không dùng cho các trường hợp hư hàn
Đọc hết Siter này, bạn hãy dành dăm chậu hoa để dâm chè đắng, cây
con khỉ, đinh lăng, diếp cá; góc vườn trồng lấy cây bơ, cây mãng cầu xiêm….Chúng đều
là cây thuốc phòng bệnh cho chính mình cả đấy. Chúc các bạn thành công, trồng cây mát nhà,
phòng, chữa bệnh.
Nhận xét
Đăng nhận xét